Tương tự báo cáo cập nhật ngành lần trước, điểm sáng vẫn là VCB. Cả 5 chủ đề chính trong báo cáo này không nhằm nêu bật VCB. Chúng tôi thậm chí còn đánh giá CTG cao hơn VCB về mặt IT. Tuy nhiên, VCB vẫn tiếp tục là ngân hàng đi đầu trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiết lập vai trò dẫn đầu trong việc thu hút tiền gửi USD và thanh toán liên ngân hàng, hoạt động cho vay BĐS thận trọng hơn, xếp thứ hai về hệ thống IT, cũng như cho thấy đặc điểm thuộc tốp đầu ngành khi chúng tôi tính toán tỷ lệ ROE chuẩn hóa.
Ðể biết thêm thông tin chi tiết vui lòng Download bản PDF tại đây (sử dụng địa chỉ email KH đã đăng ký khi mở TK tại VCSC làm username và password)
Báo cáo cập nhật ngành ngân hàng thứ hai của chúng tôi không chú trọng nhiều vào các tỷ lệ và chi tiết báo cáo tài chính, thay vào đó áp dụng cái nhìn tổng quan để tập trung vào 5 chủ đề chính mà chúng tôi cho rằng là quan trọng nhất trong việc định hướng ngành ngân hàng trong những năm tới: Dự thảo Thông tư về việc áp dụng Basel II tại Việt Nam, phân tích thị trường liên ngân hàng Việt Nam, theo dõi diễn biến của việc cho vay BĐS, thử nghiệm hệ thống công nghệ thông tin (IT) của ngân hàng và ước tính của VCSC về tỷ lệ ROE chuẩn hóa.
Tương tự báo cáo cập nhật ngành lần trước, điểm sáng vẫn là VCB. Cả 5 chủ đề chính trong báo cáo này không nhằm nêu bật VCB. Chúng tôi thậm chí còn đánh giá CTG cao hơn VCB về mặt IT. Tuy nhiên, VCB vẫn tiếp tục là ngân hàng đi đầu trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiết lập vai trò dẫn đầu trong việc thu hút tiền gửi USD và thanh toán liên ngân hàng, hoạt động cho vay BĐS thận trọng hơn, xếp thứ hai về hệ thống IT, cũng như cho thấy đặc điểm thuộc tốp đầu ngành khi chúng tôi tính toán tỷ lệ ROE chuẩn hóa.
Áp dụng tiêu chuẩn định giá chung cho tất cả ngân hàng khiến chúng tôi phải đánh giá về điểm mạnh trên theo những yếu tố dẫn dắt định giá tiêu chuẩn. 3 ngân hàng VCB, CTG và ACB được chúng tôi ghi nhận mức tăng trưởng 4% trong năm cuối cùng của mô hình định giá do yếu tố chính là khả năng tiếp cận thị trường vốn của các ngân hàng này. Một thực tế kém tích cực hơn là những ngân hàng có thể tăng vốn thành công sẽ có lợi thế lớn so với những ngân hàng khác. Khi đề cập những yếu tố dẫn dắt định giá khác, chúng tôi đánh giá cao VCB và khả năng duy trì vị thế đầu ngành tính về chi phí huy động vốn và tỷ lệ CIR, cũng như khả năng tăng trưởng thu nhập ngoài lãi vay. Thông qua 60 trang của báo cáo này, chúng tôi có thể giải thích được định giá của VCB.
Tuy nhiên, báo cáo cập nhật ngành ngân hàng này không chỉ mang tính chất lý thuyết và chúng tôi nhận thấy giá trị lớn nhất đến từ ba ngân hàng mà khả năng tiếp cận thị trường vốn của những ngân hàng này tốt nhất và nổi bật là tiềm năng tăng giá của ACB. Các khó khăn về tỷ lệ chi phí/doanh thu (CIR) trước đó đã giảm đáng kể trong 9 tháng đầu năm 2015 (nếu không tính đến chi phí dự phòng), ACB là một trong hai ngân hàng có khả năng tạo thu nhập ngoài lãi tốt và ngay cả sau khi phản ánh vào mô hình định giá các khoản giảm trừ liên quan đến “6 không ty”, chúng tôi vẫn tính được tỷ lệ tăng khoảng 29%. Cuối cùng, trong khi việc tiếp cận thị trường vốn là một điểm cộng dành cho ACB, thì điều này không cần thiết đối với ACB trong ngắn hạn, với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cao xét theo cả Thông tư 36 và Basel II. Chúng tôi đánh giá cao 3 ngân hàng đề cập ở trên vì có chi phí tín dụng tương đối thấp trong chu kỳ trước.
Những lựa chọn này trên thực tế không phù hợp với nhà đầu tư nước ngoài. Đối với trần sở hữu tối đa cho khối ngoại (FOL), chúng tôi cho rằng ngưỡng 30% sẽ nới dần trong một hoặc hai năm tới. Trong khi đó, chúng tôi cho rằng nhà đầu tư nên tích lũy VCB khi giá thấp (sự thận trọng sẽ giảm bớt khi đợt huy động vốn vào Quý 1/2016 được hoàn tất), và nên nắm giữ CTG.